-
Chưa có sản phẩm mua
Cây trà - loài thực vật có nguồn gốc cổ xưa ở Đông Á mà Việt Nam là một trong những cái nôi, nay trở thành báu vật đa giá trị của nhân loại. Từ vai trò trụ cột trong kinh tế, y học, văn hóa đến sức mạnh mềm trong ngoại giao, trà đang tiếp tục khẳng định vị trí trên toàn cầu.
.png)
Đồi chè Cầu đất. Ảnh: Hoàng Anh

Cây trà (Camellia sinensis) là báu vật đa giá trị của nhân loại, kết nối chặt chẽ bốn lĩnh vực kinh tế - y học - văn hóa - ngoại giao.
Về kinh tế, trà tạo ra thị trường toàn cầu với gần 70 tỷ USD năm 2024, dự kiến tăng gấp đôi đến năm 2033 (CAGR 6,55%); trong đó, Việt Nam xếp thứ 6 thế giới với 256 triệu USD về xuất khẩu năm 2024, nuôi sống hàng triệu nông dân và thúc đẩy phát triển nông thôn bền vững.
Về y học, lá trà chứa EGCG, polyphenol và L-theanine với khả năng chống ung thư, bảo vệ tim mạch, giảm stress, tăng cường miễn dịch, được hàng nghìn nghiên cứu lâm sàng chứng minh, biến trà thành “thần dược” tự nhiên hàng ngày.

Về văn hóa, cây trà là linh hồn của nghệ thuật sống Á Đông: Từ “Trà Kinh” của Lư Vũ đến trà đạo Nhật Bản (di sản UNESCO), từ chén trà sen Tết Việt Nam đến các Lễ hội Trà Bảo Lộc, Thái Nguyên và gần đây nhất vào tối ngày 5/12/2025, UBND tỉnh Lâm Đồng phối hợp với các thương hiệu trà Bảo Lộc, khai mạc Lễ hội Trà quốc tế năm 2025.
.png)
Trà còn là công cụ ngoại giao, như trong các buổi trà chiều Anh Quốc hoặc quà tặng quốc tế từ Việt Nam. Trà là thức uống truyền thống văn hoá trong tiếp khách không chỉ ở từng gia đình Việt Nam mà còn ở từng địa phương/doanh nghiệp.
Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, trà không chỉ là một thức uống truyền thống mà còn là biểu tượng của sự hiếu khách, thanh lịch và cầu nối hữu nghị giữa các dân tộc.
Đặc biệt, trong các cuộc gặp cấp cao giữa lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc, trà đã trở thành yếu tố then chốt, thể hiện sự tinh tế trong nghi thức ngoại giao. Một ví dụ điển hình là cuộc tiếp Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng vào năm 2017, nơi tiệc trà tại Nhà sàn Bác Hồ đã khắc sâu dấu ấn về tình hữu nghị Việt - Trung.

Như vậy, chỉ từ một loài cây nhỏ bé, trà đã đồng thời mang lại thịnh vượng kinh tế, sức khỏe cộng đồng, bản sắc văn hóa và hòa bình ngoại giao cho hơn một nửa dân số thế giới.
.png)
Cây trà Camellia sinensis, nguồn gốc của hầu hết các loại trà trên thế giới, có nguồn gốc từ Đông Á. Cụ thể là vùng biên giới giữa tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), bang Assam (Ấn Độ), Myanmar và Việt Nam.
.png)
Ngành nông nghiệp trồng chè (trà) góp phần thúc đẩy phát triển nông thôn bền vững. Ảnh: Hoàng Anh
Loài này thuộc hai biến thể chính: Var. sinensis (lá nhỏ, thích nghi khí hậu mát mẻ) và var. assamica (lá lớn, phù hợp vùng nhiệt đới). Các nghiên cứu di truyền học dựa trên microsatellite nhân và chuỗi cpDNA cho thấy sự thuần hóa ban đầu diễn ra ở biên giới Đông Ấn Độ - Tây Nam Trung Quốc khoảng 2.000 - 3.000 năm trước.
Dựa trên các nghiên cứu khoa học và tài liệu lịch sử, nguồn gốc cây trà (Camellia sinensis) ở Việt Nam được xác nhận là một trong những "cái nôi" cổ xưa nhất của loài cây này trên thế giới. Đặc biệt qua các phát hiện của nhà thực vật học Nga Ivan M. Vinogradov (1891 - 1972).
Là thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô (nay là Nga), Vinogradov đã thực hiện các chuyến khảo sát thực địa tại Việt Nam vào những năm 1950 - 1960, tập trung vào đa dạng sinh học miền núi phía Bắc.

Đọt non của cây chè
Ông phát hiện và ghi nhận các quần thể trà cổ thụ hoang dã (thuộc biến thể assamica) tại các vùng như: Yên Bái (rừng Suối Giàng với khoảng 40.000 cây, một số cây cao 9m và hàng nghìn năm tuổi), Cao Bằng (cây trà hoang cao tới 18m) và các khu vực Tây Bắc như Lào Cai, Sơn La.
Kết luận của Vinogradov trong báo cáo khoa học (được công bố qua Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô) khẳng định: Việt Nam là một vùng quê hương nguyên thủy của cây trà trên thế giới, với các cây cổ thụ này đại diện cho nguồn gen ban đầu, trước khi lan tỏa sang Vân Nam (Trung Quốc), Assam (Ấn Độ), Lào và Myanmar khoảng 2.000 - 3.000 năm trước.
Những phát hiện này được hỗ trợ bởi bằng chứng di truyền học hiện đại (dựa trên cpDNA và microsatellite), xác nhận nguồn gen trà Việt Nam là một trong những trung tâm đa dạng nhất châu Á, với hơn 90 loài họ Camellia (bao gồm trà cổ thụ Shan Tuyết).

Theo dữ liệu FAO năm 2024, diện tích trồng trà toàn cầu đạt khoảng 5,3 triệu ha, tăng 8% so với 5 năm trước, với sản lượng đạt 7,1 triệu tấn, tăng 6,8% so với 2023.
Trung Quốc dẫn đầu với 3,7 triệu tấn (53% tổng sản lượng), theo sau là Ấn Độ (1,28 triệu tấn, 18,2%) và Kenya (8,5%).
Dự báo năm 2025, sản lượng sẽ tiếp tục tăng lên 7,3 - 7,5 triệu tấn nhờ mở rộng diện tích ở châu Phi và châu Á, dù đối mặt thách thức từ biến đổi khí hậu làm giảm năng suất ở Sri Lanka (14%) và Kenya (25%).
Thị trường trà toàn cầu đạt giá trị 70 tỷ USD năm 2024, dự kiến đạt 122,59 tỷ USD vào 2033 với CAGR 6,55%, chủ yếu từ trà xanh hữu cơ.

Việt Nam là nhà sản xuất trà lớn thứ 6 thế giới, với diện tích trồng trà đạt 128.000 ha năm 2024 - 2025; trong đó, có 118.000 ha thu hoạch. Sản lượng khô khoảng 180.000 - 230.000 tấn/năm, tương đương 1-1,125 triệu tấn lá tươi. Năng suất trung bình 8 - 9 tấn lá tươi/ha, tập trung ở 12 tỉnh, chủ yếu miền Bắc và Tây Nguyên.

Xuất khẩu đạt 145.000 tấn vào năm 2024. Ảnh minh họa
Xuất khẩu đạt 145.000 tấn vào năm 2024, giá trị 256 - 260 triệu USD, tăng 25 - 27% so với 2023. Diện tích trồng chè Việt Nam có xu hướng giảm, nếu năm 2015 Việt Nam có 133. 600 ha, hiện nay còn 128.000 ha. Vị thế chè Việt Nam hiện đứng thứ 6 trên thế giới.
Tỉnh Lâm Đồng, trung tâm Tây Nguyên, có diện tích trồng chè khoảng 10.800 ha, sản lượng vượt 164.100 tấn/năm (chủ yếu Oolong và trà đặc sản cao nguyên), chiếm 10,94% sản lượng quốc gia, với năng suất cao trên 14 tấn/ha, nhờ độ cao 1.000 - 1.500m và khí hậu ôn đới. Hiện, đang được hỗ trợ xuất khẩu sang Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc.
.png)
Cũng tương tự như ngành chè Việt Nam, ngành chè Lâm Đồng diện tích cũng giảm sâu sau 10 năm. Năm 2015, diện tích chè Lâm Đồng là 21.400 ha, chiếm 16% và đứng đầu cả nước, hiện nay còn khoảng 10.800 ha đứng thứ 4 cả nước.
Theo Hiệp hội Chè Việt Nam (Vitas), Việt Nam hiện có khoảng 170 - 200 doanh nghiệp chế biến chè hoạt động chính thức, tập trung vào các loại chè xanh (chiếm 60 - 70% sản lượng), chè đen (20-30%) và chè Oolong (10 - 15%). Trong đó, có nhiều thương hiệu chè nổi tiếng .

Trà cổ thụ (cây trà hoang dã hoặc bán hoang dã, tuổi từ 100 - 3.000 năm) là di sản sinh thái quý giá ở Việt Nam, chủ yếu thuộc var. assamica và C. var. sinensis, phân bố ở các vùng núi phía Bắc và Tây Bắc.

Công nhân sơ chế chè tươi để sản xuất trà tại xưởng. Ảnh: Hoàng Anh
Các khu vực chính bao gồm: Hà Giang (rừng Shan Tuyết, độ cao >1.000m, cây nghìn năm trên núi Tây Côn Lĩnh); Yên Bái (rừng Suối Giàng, >85.000 cây cổ 400 - 800 năm, do cộng đồng người Mông quản lý); Lào Cai, Sơn La, Lai Châu và Điện Biên (rừng hỗn hợp, cây 100 - 150 năm từ thời Pháp thuộc).
Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã phát hiện các quần thể chè ở Khu bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng, Lâm Đồng và khu rừng nguyên sinh thuộc Ban Quản Lý Rừng huyện An Lão (cũ), tỉnh Gia Lai.
Những cây chè này phát triển trong hệ sinh thái rừng sương mù đa dạng sinh học, không sử dụng thuốc trừ sâu, góp phần bảo tồn gen trà bản địa và sản xuất trà hữu cơ cao cấp như Shan Tuyết.

Viện Khoa học kỹ thuật nông, lâm nghiệp miền núi phía Bắc (NOMAFSI), trực thuộc Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam, là trung tâm nghiên cứu chè quốc gia, chuyên chọn tạo giống chè năng suất cao, chất lượng tốt và thích ứng với điều kiện miền núi phía Bắc (như Thái Nguyên, Phú Thọ, Sơn La).
Từ năm 2018 - 2025, Viện đã hoàn thiện và công nhận hơn 10 giống trà xanh qua phương pháp lai hữu tính kết hợp đột biến nhân tạo, góp phần chuyển đổi 60-70% diện tích chè quốc gia sang giống mới, tăng giá trị kinh tế hàng nghìn tỷ đồng/năm.

Tỉnh Lâm Đồng có diện tích trồng chè khoảng 10.800 ha, sản lượng vượt 164.100 tấn/năm. Ảnh: Hoàng Anh
Các giống chè xanh tập trung vào hàm lượng polyphenol, catechin cao (hỗ trợ chống oxy hóa, giảm cholesterol), năng suất 8 - 10 tấn lá tươi/ha và kháng sâu bệnh tốt, phù hợp chế biến chè xanh cao cấp và hữu cơ.
Các giống chè do Viện nghiên cứu nổi bật bao gồm: PH1, PH8 và PH9, PH10 Phúc Vân Tiên và LDP1 Shan Tham Vè, Hương Bắc Sơn và VN15, TRI5.0.
Ngoài ra, Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm Chè Lâm Đồng là đơn vị nghiên cứu trực thuộc Ladotea, sau này trực thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường Lâm Đồng. Đây là đơn vị sự nghiệp có trang thiết bị nghiên cứu và nhân lực còn nhiều hạn chế.
Tuy nhiên, với sự nhiệt tình, đam mê nghiên cứu khoa học, Trung tâm đã trở thành đơn vị hàng đầu tại Tây Nguyên trong việc nghiên cứu, chọn tạo và chuyển giao giống chè thích ứng với điều kiện khí hậu cao nguyên.
.png)
Công nhân thu hái lá chè. Ảnh: Hoàng Anh
Từ năm 1993, Trung tâm đã tập trung vào việc chọn lọc từ nguồn gen địa phương, góp phần vào cơ cấu giống chè đa dạng tại Lâm Đồng và các tỉnh lân cận. Các giống mới không chỉ nâng cao năng suất 20 - 22 tấn/ha mà còn cải thiện chất lượng (hương thơm, hàm lượng polyphenol cao).

Trà là thức uống truyền thống văn hóa trong tiếp khách. Ảnh: Hoàng Anh
Hai giống nổi bật là TB14 và LĐ97, chiếm 35% diện tích. Đặc biệt, LĐ97 là giống có năng suất cao, chất lượng tốt, nguyên liệu có thể chế biến đa dạng sản phẩm, với những đặc điểm ưu việt và hành trình nghiên cứu. Tại Diễn đàn Trà thế giới diễn ra ở Trung Quốc vào tháng 11/2023, TS. Phạm S vinh dự được ghi nhận là “Nhà khoa học có đóng góp kiệt xuất cho ngành trà thế giới”.
Ngoài nghiên cứu chọn tạo các giống cao sản TB14 và LĐ97, Trung tâm đã nghiên cứu đánh giá sinh thái và nhân giống vô tính chè chất lượng cao đầu tiên ở Việt Nam. Sau đó, chuyển giao ra các tỉnh phía Bắc trồng đại trà. Các giống này phù hợp với chế biến chè Ô long hiện nay như: Kim Tuyên, Thúy Ngọc, Tứ Quý, Ô Long Thanh Tâm…
.png)
Trà không chỉ là một thức uống mà còn là biểu tượng văn hóa sâu sắc trên toàn cầu.
Trà đã vượt qua giới hạn địa lý để trở thành biểu tượng văn hóa toàn cầu, với lịch sử hơn 4.000 năm từ Trung Quốc. Ban đầu dùng cho mục đích y học và tôn giáo, trà dần trở thành biểu tượng của sự hiếu khách, thanh tịnh và kết nối xã hội.
Trong văn hóa phương Đông, trà đại diện cho triết lý sống hài hòa với thiên nhiên. Trong khi ở phương Tây, nó thể hiện sự thanh lịch và giao lưu xã hội: Trà đạo Trung Quốc bắt nguồn từ thời nhà Đường với Lu Yu và cuốn "Trà Kinh". Ý nghĩa cốt lõi là tìm sự bình an nội tâm, kính trọng người lớn tuổi và trân quý truyền thống;

Chè năng suất cao, chất lượng tốt và thích ứng với điều kiện miền núi. Ảnh: Hoàng Anh
Trà đạo Nhật Bản (Chanoyu hoặc Sado) phát triển từ thế kỷ XII, mang bản sắc riêng với bốn nguyên tắc: Hòa (hài hòa), Kính (tôn trọng), Thanh (thanh tịnh), Tịch (tĩnh lặng). Trà đạo Nhật Bản còn là di sản UNESCO, góp phần vào du lịch văn hóa toàn cầu.
Về mặt xã hội, trà thúc đẩy sự thư giãn, giảm stress và xây dựng cộng đồng, với giá trị kinh tế toàn cầu đạt hàng tỷ USD, cây trà là một trong những cây trồng góp phần thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới ở các tỉnh Tây Bắc.

Thưởng trà. Ảnh: Hoàng Anh
Các lễ hội trà hiện đại củng cố vai trò này bằng cách kết hợp văn hóa truyền thống với phát triển kinh tế, nhất là phong tục tập quán đối với các nước phương Đông; trong đó có Việt Nam.
Đặc biệt là trong Lễ cưới sẽ có nhiều lễ vật, song các lễ vật khác có thể thay đổi tùy theo điều kiện kinh tế họ nhà trai, nhưng trà là lễ vật không bao giờ thiếu dù điều kiện kinh tế họ nhà trai thế nào.

Lễ hội Văn hóa Trà Bảo Lộc là sự kiện kinh tế - văn hóa - du lịch lớn đầu tiên tại Việt Nam, nhằm tôn vinh ngành trà, diễn ra từ ngày 21 - 24/12/2006 tại TP. Bảo Lộc và các khu vực lân cận (Bảo Lâm, Đà Lạt, Lâm Đồng).
Đây là lễ hội riêng biệt, trước khi được tích hợp vào Festival Hoa Đà Lạt từ năm 2017 (với chu kỳ 2 năm/lần). Như vậy, Bảo Lộc là địa phương tổ chức Lễ hội trà đầu tiên của cả nước.

Việt Nam là một vùng quê nguyên thủy của cây chè trên thế giới
Lễ hội Trà Thái Nguyên (hay Festival Trà Thái Nguyên) lần đầu tiên được tổ chức vào năm 2011, với tên gọi chính thức là Festival Trà Quốc tế lần thứ nhất - Thái Nguyên 2011.
Sự kiện diễn ra từ ngày 11 - 15/11/2011 tại TP. Thái Nguyên, do UBND tỉnh Thái Nguyên chủ trì, nhằm quảng bá giá trị văn hóa, kinh tế của cây chè - đặc sản "đệ nhất danh trà" Việt Nam, chu kỳ 2 năm một lần. Lần 5 là vào năm 2021, mặc dù dịch Covid-19 làm gián đoạn, nhưng vẫn tổ chức dưới hình thức trực tiếp và trực tuyến.

Các giống chè xanh có hàm lượng polyphenol, catechin cao (hỗ trợ chống oxy hóa, giảm cholesterol)
Lễ hội Trà Thế giới (World T.E.A Fest 2025) do UBND tỉnh Lâm Đồng phối hợp Công ty Cổ phần Chè Lâm Đồng tổ chức từ 11 /11 - 7/12/2025 tại Đà Lạt và Bảo Lộc. Khai mạc vào 20h ngày 5/12/2025, với quy mô quốc tế.

Lễ hội bao gồm triển lãm, hội thảo và biểu diễn, liên quan đến các thương hiệu trà địa phương như: Trà Oolong và đặc sản Lâm Đồng. Các hoạt động bao gồm biểu diễn pha trà bởi có 1.111 cô gái, triển lãm và giao lưu văn hóa, nhấn mạnh sự kết nối tinh hoa trà toàn cầu.
Lễ hội thúc đẩy du lịch và kinh tế, với ý nghĩa bảo tồn di sản trà Việt. Ý nghĩa là kết nối văn hóa trà toàn cầu, nâng tầm thương hiệu Việt Nam, sự kiện thu hút 20.000 lượt khách.

Những đồi chè bạt ngàn
Có thể nói, cây trà là một loài thực vật có ý nghĩa khoa học sâu sắc qua các hợp chất hoạt tính, thực tiễn rộng rãi trong kinh tế và y học, cũng như văn hóa phong phú qua trà đạo, sự kiện lễ hội và ngoại giao.
Do đó, việc nghiên cứu các giải pháp đồng bộ về giống, canh tác, chế biến sản phẩm đa dạng, thị trường, biến đổi khí hậu, bảo tồn và tác động văn hóa, nhằm khai thác bền vững sẽ đảm bảo lợi ích lâu dài, góp phần vào phát triển xã hội bền vững để nâng cao vị thế ngành trà Việt theo chuỗi giá trị toàn cầu.
.png)
Chè Việt Nam hiện đứng thứ sáu trên thế giới
trích nguồn: baolamdong.vn
Liên kết website |
Cơ quan chủ quản SỞ NÔNG NGHIỆP VÀ MÔI TRƯỜNG LÂM ĐỒNG
Đơn vị quản lý và vận hành: CHI CỤC CHẤT LƯỢNG, CHẾ BIẾN VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
Địa chỉ: Tầng 4, Trung tâm hành chính tỉnh Lâm Đồng, 36 Trần Phú, Phường Xuân Hương - Đà Lạt, Tỉnh Lâm Đồng
Email: ccqlcllamdong@gmail.com
Điện thoại: 02633 811953 Fax: 02633 549095 Hotline: 0916676867
@Ghi rõ nguồn nongsandalatlamdong.vn khi sử dụng thông tin từ Trang thông tin điện tử này.